Đây được đánh giá là dự án KHCN lớn nhất từ trước đến nay mà Bộ KH&CN từng trợ giúp cho các chức vụ trong nước với kinh phí khoảng 112 tỷ đồng. Đồng thời , sau khi khai triển , đây được đánh giá là một dự án khoa học có sức có tác động đến một điều gì đó lớn đến công tác khai khẩn của ngành dầu khí Việt Nam.Mặc dù bây giờ , nhu cầu đi giàn khoan dầu khí ở vũng tàu là rất lớn , song số lượng các công ti có xác xuất thiết kế thi công chế tạo giàn khoan lại rất ít do request về kỹ thuật thi công rất không đơn giản và request về hàm lượng chất xám cao. Bên cạnh đó , vì trong nước chưa có doanh nghiệp đủ cơ sở vật chất và sức người thực hành nên các nghề nghiệp như bảo dưỡng , tu sửa và hoán cải gian khoan tu nang 90m nuoc phục vụ người ốm việc thăm dò và khai khẩn dầu khí tại vùng biển Việt Nam và chuye đều do các công ti nước ngoài thực hành ( cốt yếu ở Singapore ) với phí tổn rất cao và thời kéo dài. Trong khi đó , mỗi năm , Việt Nam cần khoảng từ 7-10 giàn khoan dầu khí ở vũng tàu biển để phục vụ người ốm công tác khoan thăm dò. Bây giờ mới chỉ có 3 giàn khoan dầu khí biển thuộc sở hữu của các công ti trong nước là các giàn Tam Đảo , Cửu Long của VietsovPetro và giàn PVDrilling 1 của PV Drilling và 1 gian khoan lục địa là giàn PV Drilling 11. Các doanh nghiệp trong nước và các nhà thầu dầu khí khác đang hoạt động thăm dò và khai khẩn tại Việt Nam đều phải đi mướn gian khoan của nước ngoài với giá thành rất đắt , lên đến hàng nghìn tỷ đồng mỗi năm.Bên cạnh đó , hiện Tập đoàn Dầu khí Việt Nam cũng đang định hướng phát triển việc thăm dò dầu khí ở cách xa thềm lục địa và trên lục địa , nên các loại gian khoan tu nang 90m nuoc nửa nổi nửa chìm , tàu khoan và gian khoan dau khi o vung tau lục địa cũng thu hút được sự quan hoài của các chủ đầu tư.Việc chế tạo giàn khoan dầu khí hải dương 981 tại Việt Nam có ý nghĩa rất quan yếu mang lại nhiều lợi ích to lớn về kinh tế. Bên cạnh đó , bây giờ , một giàn khoan tự nâng 60m nước đến 130m nước nhập từ nước ngoài sờn lòng từ khoảng 3.200-5.000 tỷ đồng , với giàn khoan nửa nổi nửa chìm là khoảng 9.000 tỷ đồng. Để nhập khẩu hay đi thuê một thiết bị như vậy doanh nghiệp sẽ gặp rất nhiều có nhiều trở ngại hoặc thiếu thốn. Vì vậy , theo như kế hoạch , từ nay đến năm 2020 , nếu mỗi năm Việt Nam làm ra được 2 sản phẩm , các doanh nghiệp dầu khí Việt Nam sẽ tránh được việc phải đi thuê sản phẩm hoặc sử dụng các service của nước ngoài. Ngoại giả , dự án còn tạo công ăn việc làm , thu hút một số lượng lớn cần lao , góp phần giải quyết các vấn đề về xã hội bởi số lượng nhân lực cần sử dụng để trở tạo 1 giàn khoan dầu khí ở vũng tàu vào khoảng 2.000 đến 3.000 người. Chính vì vậy , dự án này sẽ tạo được bước đột phá về KHCN để ngành dầu khí Việt Nam nâng được tỷ lệ nội địa hóa , chủ động trong việc khai triển , tìm kiếm , thăm dò dầu khí , giảm thiểu việc thuê service này từ các nhà thầu nước ngoài , đồng thời hình thành và phát triển một chuye làm ra mới trong công nghiệp dầu khí. Dự án này sẽ do Tập đoàn Dầu khí Việt Nam làm cơ quan chủ quản , PVShipyard làm chức vụ chủ trì ( cùng với Narime thực hành 11 đầu đề thuộc dự án ). Thời kì thực hành dự án là 27 tháng , bắt đầu từ tháng 04/2010./.Nguyễn Uyên – Bảo Ngọc
.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét